1. Viêm da cơ địa là gì ?
Viêm da cơ địa thường được gọi là eczema hay chàm cơ địa là bệnh mạn tính tiến triển từng đợt, thường bắt gặp ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi và giảm đáng kể ở tuổi trưởng thành, nhưng một số trường hợp có thể kéo dài đến suốt đời, tổn thương da từ ban đỏ mức độ nhẹ đến lichen hóa (dày da) mức độ nặng. Cơ chế bệnh sinh liên quan đến tính di truyền, cơ chế miễn dịch, rối loạn chức năng hàng rào thượng bì và yếu tố môi trường.
2. Nguyên nhân gây nên viêm da cơ địa
Nguyên nhân gây viêm da cơ địa là kết quả của sự tương tác nhiều yếu tố, trong đó:
Môi trường
Đóng vai trò khởi phát, có thể đến như:
-
Ô nhiễm môi trường: bụi bặm, nấm mốc, thời tiết khô hanh…
-
Thực phẩm dị ứng: Sữa, trứng, đậu phộng, đậu nành, lúa mì…
-
Các sản phẩm bôi tại chỗ như mỹ phẩm, nước hoa…
Di truyền - rối loạn miễn dịch
Viêm da cơ địa thường xảy ra ở bệnh nhân có đột biến gen fillagrin là gen mã hóa cho các protein cấu trúc của biểu bì và protein có chức năng miễn dịch. Bệnh có tính chất gia đình rõ rệt, 73% trẻ em bị VDCĐ có tiền sử gia đình bị VDCĐ. Bệnh thường kết hợp với các bệnh lý cơ địa khác như hen phế quản, viêm mũi dị ứng
Rối loạn chức năng hàng rào bảo vệ da:
Vùng da của bệnh nhân bị viêm da cơ địa cho thấy có sự giảm ceramid cũng như các peptide kháng khuẩn nội sinh, thiếu lipid gian bào, tăng men tiêu protein nội sinh dẫn đến da khô, mất nước, phá vỡ tính toàn vẹn cả hàng rào bảo vệ da, tăng sự xâm nhập của các chất gây kích ứng từ môi trường và dị ứng, các vi khuẩn gây nên tình trạng nhiễm trùng da
3. Triệu chứng thường gặp của viêm da cơ địa
Bệnh thường tái phát theo chu kỳ, hay gặp nhất ở trẻ sơ sinh, thường là 3 tháng tuổi. Ngứa dữ dội đặc điểm chính. Ngứa-gãi-ban đỏ tạo thành vòng xoắn bệnh lý, đi kèm với các tổn thương có nguy cơ bị bội nhiễm vi khuẩn vi rút, ngứa nặng hơn khi phơi nhiễm chất gây dị ứng, không khí khô, đổ mồ hôi, quần áo len và căng thẳng cảm xúc.
Ở giai đoạn cấp tính: Biểu hiện là đám da khô, sẩn đỏ ranh giới không rõ ràng, da bị phù nề, chảy dịch, đóng vảy tiết, đôi khi có mụn nước. Các vết xước do gãi tạo vết trợt, khi bội nhiễm tụ cầu tạo các mụn mủ và vẩy tiết vàng.
Ở giai đoạn bán cấp: Triệu chứng nhẹ hơn dưới dạng hồng ban, tróc vảy, đóng mài
Ở giai đoạn mạn tính: Trầy xước và chà xát tạo ra những tổn thương khô, dày sần, lichen hóa trên da.
Phân bố tổn thương phụ thuộc vào tuổi. Ở trẻ sơ sinh, tổn thương đặc trưng xảy ra ở mặt, da đầu, cổ, và mặt duỗi của các chi. Ở trẻ lớn hơn và người lớn, các tổn thương xảy ra trên các mặt gấp như khuỷu tay, khoeo chân.
4. Biến chứng
Nhiễm khuẩn thứ phát, đặc biệt là nhiễm khuẩn tụ cầu vàng và liên cầu như viêm mô bào là phổ biến, có thể phát triển thành viêm da bong vảy.
Eczema herpeticum (còn gọi là phản ứng dạng thủy đậu Kaposi) là một nhiễm trùng herpes simplex lan tỏa xảy ra ở bệnh nhân viêm da cơ địa. Tổn thương là các mụn nước nổi lên ở các vùng da bị viêm, có thể xuất hiện ở vùng da thường đi kèm với sốt cao và nổi hạch. Có thể ảnh hưởng tới mắt, gây tổn thương giác mạc.
Nhiễm nấm da
5. Điều trị viêm da cơ địa
Nguyên tắc điều trị cơ bản của viêm da cơ địa bao gồm: Sử dụng thuốc để làm giảm phản ứng viêm, giảm ngứa cũng như ngăn ngừa nhiễm trùng trong đợt cấp và duy trì dưỡng ẩm, chăm sóc bảo vệ da để giảm mức độ và tần số các đợt bùng phát
Điều trị không dùng thuốc
Ở người bị VDCĐ, da thiếu lipid tại lớp sừng (đặc biệt là ceramide) và yếu tố giữ ẩm tự nhiên (các axit amin hút ẩm), do vậy cần dùng thuốc dưỡng da để duy trì độ ẩm. Dưỡng ẩm cho da ít nhất hai lần một ngày bằng các sản phẩm phù hợp với cơ địa người bệnh, vị trí tổn thương cũng như mức độ khô da. Các loại kem đặc có hàm lượng nước thấp ( thuốc mỡ) thường được sử dụng nhiều hơn, vì chúng ngăn mất nước tốt hơn so với dạng dung dịch
- Tránh tiếp xúc với các tác nhân gây dị ứng như lông thú, xà phòng, bụi chất tẩy rửa, bụi, phấn hoa…
- Không tắm nước quá nóng hoặc quá lạnh, nhiệt độ < 36°C. Hạn chế sử dụng các sản phẩm có tính chất tẩy rửa cao. Dùng thuốc dưỡng ẩm ngay sau khi lau khô người.
- Người bệnh tránh chà xát da, không gãi khi ngứa.
Điều trị bằng thuốc
Điều trị viêm da cơ địa bằng thuốc giúp giảm các triệu chứng và dự phòng tái phát bệnh.
- Thuốc điều hoà miễn dịch tại chỗ: Thuốc bôi có tác dụng điều chỉnh đáp ứng miễn dịch cục bộ ở da, từ đó làm giảm viêm và ngứa da. Thuốc điều trị viêm da cơ địa được chia thành hai loại chính gồm Steroid và không steroid.
+ Steroid dạng bôi là thuốc được dùng nhiều nhất trong điều trị viêm da cơ địa từ loại có hoạt tính yếu như hydrocortisone dạng thuốc mỡ) dùng cho trẻ nhỏ hoặc bệnh nhân mức độ nhẹ. Steroid bôi tại chỗ nên được bôi 2 lần mỗi ngày, kèm với các chất dưỡng ẩm đi kèm( thoa corticoid trước và sau đó phủ lớp dưỡng ẩm bên ngoài.
Đối với bệnh nhân viêm da cơ địa mức độ trung bình, nên dùng steroid có hoạt tính mạnh hơn (ví dụ, fluocinolone 0,025%; triamcinolone 0,1%; betamethasone dipropionate 0,05%). Đặc biệt, những bệnh nhân nặng, cấp tính, có thể sử dụng steroid hoạt tính rất mạnh trong tối đa hai tuần. Sau đó thay dần bằng loại có hoạt tính yếu hơn cho đến khi tổn thương đã lành. Da mặt và các nếp gấp khuỷu là những vùng có nguy cơ cao bị teo da khi dùng steroid. Vì vậy, nên điều trị ban đầu ở những khu vực này bằng steroid hoạt tính yếu, khi bôi cần bôi lớp thật mỏng.
Đối với những bệnh nhân viêm da cơ địa mãn tính với vùng da dày sần, liken hóa thì có thể phối hợp thêm acid salycilic để làm giảm lớp sừng bên ngoài, tạo điều kiện để corticoid tác động tốt hơn
+ Thuốc ức chế calcineutrine tại chỗ (TCI) là chất điều hòa miễn dịch không steroid như tacrolimus được sử dụng khi không đáp ứng với corticoid hoặc ở những bệnh nhân sẽ gặp nhiều tác dụng phụ bất lợi nếu sử dụng corticoid, có thể thay thế corticoid để thoa ở những vùng da mỏng ở mặt, mắt, hậu môn, sinh dục…chống chỉ định cho trẻ dưới 2 tuổi.
Tacrolimus 0,1% thích hợp cho người lớn (> 15 tuổi), còn loại Tacrolimus 0,03% dùng cho trẻ em hoặc người lớn không dung nạp với loại 0,1%. Sau khi điều trị giai đoạn cấp tính bằng corticoid bôi, nên sử dụng TCI trong thời gian từ 2 đến 4 tuần để ngừa tái phát
Ngoài ra, có thể sử dụng thêm các loại thuốc uống toàn thân khác như kháng sinh để điều trị nhiễm khuẩn trong trường hợp bội nhiễm, kháng histamin H1 để giảm ngứa. Corticoid đường uống có thể được sử dụng trong tình trạng nặng, lặp đi lặp lại không đáp ứng với dạng thuốc bôi, cần dùng liều thấp nhất có hiệu quả trong thời gian ngắn nhất (< 1 tuần). Có thể dùng quang trị liệu như UVA, UVB cho bệnh nhân mức độ trung bình đến nặng.
6. Lưu ý khi sử dụng thuốc điều trị viêm da cơ địa
- Thuốc steroid rất có hiệu quả đối với viêm da cơ địa nhưng lại gây nhiều tác dụng phụ nguy hại nếu dùng lâu dài như teo da, giãn mạch, nổi mụn, rạn da... Do vậy, cần có chỉ định, hướng dẫn từ bác sỹ, dược sỹ, không tự ý sử dụng cũng như tăng liều, khi bôi cần bôi lớp mỏng, không tự ý dùng khăn hay vải đắp kín vùng da tổn thương nếu không có chỉ định. Giam số lần thoa lại và dừng thuốc sau khi tổn thương đã lành.
- Thuốc ức chế calcineutrine tại chỗ (TCI) là lựa chọn thay thế cho steroid trong những trường hợp sau: Viêm da cơ địa kháng điều trị với steroid, tổn thương ở những vùng da nhạy cảm (mặt, hậu môn, sinh dục, nếp gấp), bệnh nhân có tiền sử bôi steroid lâu dài liên tục hoặc đã có những tác dụng phụ như teo da.
- Tránh các yếu tố khởi phát như giữ phòng ngủ thoáng mát, tránh tiếp xúc lông gia súc, gia cầm, len, dạ, giảm bụi nhà, giảm stress, nên mặc đồ vải cotton. Giữ độ ẩm không khí trong phòng.
- Vệ sinh vùng tã lót ở trẻ nhỏ tránh chất tiết gây kích thích.
- Bôi thuốc làm ẩm da hàng ngày nhất là về mùa đông, ngày 2-3 lần.
- Ăn kiêng chỉ nên áp dụng cho trường hợp bệnh nhân nặng, trẻ nhỏ, khi đã xác định rõ loại thức ăn gây dị ứng, không nên áp dụng một cách máy móc sẽ làm cho bé mất cân bằng dinh dưỡng.
- Bên cạnh đó việc bổ sung các sản phẩm từ dược mỹ phẩm có nguồn gốc thiên nhiên từ yến mạch như A-adermalibour có tác dụng kháng viêm, kháng khuẩn để hỗ trợ điều trị trong những trường hợp viêm da mức độ nhẹ và A-derma exomega dùng duy trì mỗi ngày để cấp ẩm, tái tạo hàng rào bảo vệ da, hạn chế các đợt cấp viêm da cũng như hạn chế được các tác dụng phụ bất lợi của corticoid nếu sử dùng trong thời gian dài và với các vùng da nhạy cảm, da của trẻ sơ sinh
Dược sỹ Trần Thị Hoài Vy-GMP