Kháng sinh là những chất kháng khuẩn được tạo ra bởi các chủng vi sinh vật hoặc nguồn gốc từ tổng hợp, bán tổng hợp có tác dụng tiêu diệt hoặc ức chế sự phát triển của các vi sinh vật khác.
Sự ra đời của kháng sinh đã đánh dấu một kỷ nguyên mới của y học về điều trị các bệnh nhiễm khuẩn, cứu sống hàng triệu người khỏi các bệnh nhiễm khuẩn nguy hiểm. Tuy nhiên do việc sử dụng rộng rãi, lạm dụng, chưa hợp lý nên tình trạng kháng kháng sinh của các vi sinh vật ngày một gia tăng. Mức độ kháng thuốc ngày càng trầm trọng làm ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị, nguy cơ tử vong cao, thời gian điều trị kéo dài, chi phí điều trị tăng cao, ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh và cộng đồng.
1. Đề kháng kháng sinh là gì? Tình hình đề kháng kháng sinh ở Việt Nam
Khi người bệnh mắc các bệnh lý liên quan đến nhiễm khuẩn (nhiễm khuẩn hô hấp, nhiễm khuẩn đường tiểu, nhiễm khuẩn tiêu hóa, nhiễm khuẩn da, mô mềm…) cần phải sử dụng kháng sinh, thuốc kháng sinh sẽ tác động lên một hay nhiều bộ phận của tế bào vi khuẩn và tiêu diệt gần như tất cả các loại vi khuẩn, trừ một số loại mang gen đột biến chọn lọc có khả năng kháng lại tác động của thuốc làm cho kháng sinh không còn tác dụng giết chết vi khuẩn, sinh ra kháng thuốc. Những vi khuẩn kháng thuốc này tiếp tục phát triển, nhân lên, phát tán và lây nhiễm sang những người khác khiến kháng sinh dần mất tác dụng, gây ra tình trạng đề kháng kháng sinh cộng đồng.
Kết quả nghiên cứu của nhiều công trình đã công bố tại Việt Nam và thế giới cho thấy độ nhạy cảm của vi khuẩn đối với các kháng sinh có xu hướng giảm dần, thậm chí mức độ đề kháng đang ở mức cao, đáng báo động. Chẳng hạn, với các kháng sinh cơ bản điều trị nhiễm khuẩn hô hấp như viêm họng, ho, viêm phế quản, viêm phổi thì vi khuẩn còn tương đối nhạy cảm nhưng để phát huy hiệu quả điều trị thì phải tăng liều dùng rất nhiều lên so với trước kia, đi kèm theo đó các tác dụng không mong muốn cũng sẽ tăng lên.
Tổ chức Y tế thế giới xếp Việt Nam vào danh sách các nước có tỷ lệ kháng kháng sinh cao trên thế giới. Đáng báo động ở Việt Nam đã xuất hiện vi khuẩn kháng đa thuốc, thường xuất hiện trong các bệnh viện, nhất là khoa hồi sức tích cực-nơi tập hợp những ca bệnh nặng đã có vi khuẩn đa đề kháng với carbapenem thế hệ mới – nhóm kháng sinh quý hiếm có phổ kháng khuẩn rộng nhất được xem như “của để dành”.
2. Nguyên nhân gây đề kháng kháng sinh
Kê toa kháng sinh khi không cần thiết
Kháng sinh chỉ có tác dụng diệt vi khuẩn và chỉ được sử dụng trong các trường hợp có dấu hiệu nhiễm khuẩn, không hề có hiệu quả trong điều trị virus. Các bệnh cảm ho sổ mũi thông thường 70% có nguyên nhân là virus nên việc hỗ trợ giảm triệu chứng và nâng cao sức đề kháng là cần thiết hơn cả, kháng sinh chỉ nên được dùng sau khi đã phân tích, đánh giá kĩ tình trạng bệnh nhân có dấu hiệu nhiễm khuẩn hay không. Sự mơ hồ giữa nhiễm vi rút và nhiễm vi khuẩn dễ dẫn đến việc điều trị bao vây hơn là điều trị theo đúng mục tiêu. Việc sử dụng tràn lan kháng sinh không những không giúp ích gì cho việc điều trị mà còn làm tăng nguy cơ đề kháng kháng sinh.
Bệnh nhân không tuân thủ điều trị
Sự phối hợp tốt giữa nhân viên y tế và bệnh nhân là một trong những chìa khóa để tối ưu hóa việc điều trị, trong đó ý thức tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân là cực kì quan trọng.
Thời gian điều trị kháng sinh cho các nhiễm khuẩn nhẹ thường là 7-10 ngày. Đối với các nhiễm khuẩn nặng như viêm màng não, màng trong tim, tủy xương… thì đợt điều trị thường kéo dài hơn.
Tuy nhiên do người bệnh còn thiếu hiểu biết và thiếu sót của nhân viên y tế trong việc tư vấn hướng dẫn sử dụng thuốc, đảm bảo tuân thủ điều trị, người bệnh thường hay tự ý dừng thuốc khi thấy triệu chứng bệnh đã thuyên giảm nhưng lúc này trong cơ thể vi khuẩn gây bệnh vẫn tồn tại và có thể đột biến gây kháng thuốc.
Bệnh nhân tự ý dùng thuốc kháng sinh
Việc người bệnh tự làm “bác sĩ” cho chính mình đang là vấn đề đáng lo ngại. Bệnh nhân có xu hướng tự tìm kiếm thông tin trên internet để tự chẩn đoán bệnh và tìm thuốc điều trị trong khi hoàn toàn thiếu kiến thức chuyên môn về y dược, tự xem kháng sinh là một thần dược có thể chữa được mọi bệnh, ngay cả khi chỉ sổ mũi thông thường. Việc này không những góp phần làm gia tăng đề kháng kháng sinh cộng đồng mà còn tiểm ẩn nhiều rủi ro xảy ra các phản ứng có hại khi dùng thuốc có thể ảnh hưởng đến tính mạng mà người bệnh không thể kiểm soát được.
Ngoài những nguyên nhân hàng đầu của đề kháng kháng sinh đã nêu ở trên, phải kể đến các nguyên nhân khác cũng quan trọng không kém như lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi, hệ thống vệ sinh yếu kém, kiểm soát nhiễm khuẩn trong bệnh viện và phòng khám chưa tốt, chưa có kháng sinh mới.
3. Hệ quả của việc sử dụng kháng sinh không đúng cách
Đề kháng kháng sinh làm gia tăng tỉ lệ tử vong các bệnh lý liên quan đến nhiễm trùng
Vi khuẩn kháng kháng sinh gây gánh nặng y tế. Việc điều trị sẽ trở nên khó khăn hơn, các kháng sinh cơ bản không còn có tác dụng do vi khuẩn đã kháng thuốc ngay cả khi sử dụng với liều cao, kéo dài. Do đó phải kết hợp nhiều loại kháng sinh để có tác dụng trên vi khuẩn không những gây tốn kém mà còn tăng tác dụng không mong muốn trên gan, thận cho bệnh nhân. Chưa kể việc kết hợp kháng sinh không có hiệu quả đối với các loại “siêu vi khuẩn” có thể gây tử vong cho bệnh nhân.
Không kiểm soát được tác dụng không mong muốn
Việc người bệnh tự ý dùng thuốc kháng sinh mà không có sự chỉ định hay hướng dẫn từ các chuyên gia y tế dễ dẫn đến rủi ro không thể nhận biết hay xử lý được khi tác phản ứng không mong muốn xảy ra, những phản ứng này có thể từ nhẹ như nổi mày đay, phát ban, gây ngứa ngáy khó chịu cho đến nặng với biểu hiện khó thở, tụt huyết áp…
Gia tăng các bệnh lý liên quan đến miễn dịch
Các nghiên cứu cho thấy có một lợi ích đáng kể rằng việc bổ sung men vi sinh trong giai đoạn trước và sau khi sinh có thể đóng một vai trò thiết yếu trong việc phòng ngừa và hạn chế các bệnh lý liên quan đến hệ miễn dịch như hen suyển, chàm. Chẳng hạn các bé tiếp xúc với vi khuẩn qua đường âm đạo của mẹ thì ít bị hen hơn các bé sinh bằng phương pháp mổ. Việc sử dụng kháng sinh bừa bãi, không cần thiết, đặc biệt là kháng sinh phổ rộng (kháng sinh tác động trên nhiều loại vi khuẩn) đã tiêu diệt những vi khuẩn có lợi trong cơ thể, góp phần làm tăng nguy cơ bị hen.
4. Biện pháp hạn chế đề kháng kháng sinh
Vai trò, trách nhiệm của nhân viên y tế
Chỉ kê toa kháng sinh nếu có dấu hiệu nhiễm khuẩn, ưu tiên những kháng sinh phổ hẹp- kháng sinh chỉ có tác dụng với một số loại vi khuẩn nhất định, chỉ phối hợp kháng sinh khi cần thiết.
Sử dụng kháng sinh cần đảm bảo đúng 4 nguyên tắc:
Đúng vi khuẩn gây bệnh
Đủ thời gian
Đủ hàm lượng
Đúng cách
Trong đó dược sĩ đóng vai trò quan trọng trong việc tư vấn hướng dẫn liều dùng, cách dùng hợp lý, cách theo dõi các tác dụng không mong muốn có thể xảy ra cũng như cách xử trí.
Ý thức của người bệnh
Tuân thủ liệu trình điều trị được kê toa, dùng thuốc đúng theo hướng dẫn của nhân viên y tế, không tự ý mua thuốc để điều trị, tự động giảm liều hay ngừng thuốc khi thấy triệu chứng đã giảm.
Khi con người đang bị chậm lại trong cuộc đua với vi khuẩn, vi khuẩn đang tiến hóa ngày càng tinh vi hơn các loại kháng sinh từng được dùng để tiêu diệt nó, việc ngăn chặn đề kháng kháng sinh trở thành vấn đề bức bách hơn bao giờ hết, đòi hỏi sự chung tay của cả cộng đồng.
DS. Trần Thị Hoài Vy